Thứ Tư, 14 tháng 4, 2010

Hồ quý ly

Hồ Quý Ly (1336 - 1407)

Ông có hai người cô đều được vua Trần Minh Tông lấy làm cung phi và đều trở thành mẹ nhà vua Trần, do đó ông sớm được đưa vào triều đình.

Ban đầu, vua Trần Dụ Tông cho ông làm Trưởng cục Chi hậu (1371), đến vua Trần Nghệ Tông đưa lên làm Khu mật đại sứ, lại gả con gái là công chúa Huy Ninh.

Ông là người có nhiều năng lực về chính trị, kinh tế, văn hóa.

Làm việc trong hoàn cảnh nhà Trần đã suy yếu cực độ, đất nước nghiêng ngả, nhân dân cực khổ, ông không chịu nổi. Ông được cử giữ chức cao nhất trong triều. Năm 1395 Thượng hoàng Trần Nghệ Tông chết, ông được cử làm Phụ chính Thái sư, tước Trung tuyên Vệ quốc Đại vương, nắm trọn quyền hành trong nước.

Năm 1400, ông truất ngôi vua Trần, lập nên nhà Hồ, chấn chỉnh bộ máy quan lại.

Chưa được một năm, Hồ Quý Ly theo cách nhà Trần, nhường ngôi cho con là Hồ Hán Thương, làm Thái Thượng Hoàng.

Hồ Quý Ly là vị vua Việt Nam đầu tiên quyết định dùng chữ Nôm để chấn hưng nền văn hóa dân tộc, cho dịch các kinh, thư, thi. Chính ông đã biên tập thiên "vô dật" để dạy cho con cái nhà quan và soạn ra 14 thiên Minh đạo dâng lên Trần Nghệ Tông khi trước.

Về mặt xã hội, ông thiết lập sở "Quản tế" (như ty y tế ngày nay). ở các lộ, ông đều lập một kho lúa gọi là "Thường bình", lấy tiền công mua lúa trữ vào, phòng những năm mất mùa đem bán rẻ cho dân chúng.

Ông thực thi lại chính sách phân phối ruộng đất, quy định trong nước chỉ trừ đại vương và trưởng công chúa, còn không người nào được phép có quá 10 mẫu ruộng. Số ruộng thừa phải nộp lại cho Nhà nước. Ông còn hạn chế số nô tỳ trong các nhà quyền quý, các gia đình phải tùy theo thứ bậc mà nuôi tôi tớ nhiều hay ít, không được quá số quy định.

Hồ Quý Ly cũng là người đề xướng việc phát hành tiền giấy đầu tiên ở Việt Nam.

Trước sự lăm le xâm lược của nhà Minh, Hồ Quý Ly tích cực chấn chỉnh quân đội, xây thành, đóng thuyền chiến, v.v...

Nhìn chung, những cải cách của Hồ Quý Ly là tích cực, với mong muốn xây dựng một nước Việt Nam cường thịnh, tư tưởng đổi mới của ông cũng rất đáng trân trọng song những cải cách của ông chưa mang lại những kết quả đáng kể.

Triều Hồ thành lập chưa được mấy năm thì quân Minh tràn sang xâm lược. Hồ Quý Ly tổ chức cuộc kháng chiến, song "quân nhà Hồ trăm vạn nhưng không một lòng", Hồ Quý Ly không thể cố thủ bằng cách dựa vào thành quách, cho nên sau 6 tháng kháng cự, ông và con cháu bị giặc Minh bắt đưa về Trung Quốc.

Tuy thất bại, nhưng ông là người có tinh thần tự chủ cao. Đáp lời người Trung Quốc hỏi về phong hóa nước Nam, ông tự hào viết nên một bài thơ:

"Dục vấn An Nam sự
An Nam phong tục thuần
Y quan Đường chế độ
Lễ nhạc Hán quân thần
Ngọc ủng khai tâm tửu
Kim đao chước tế lân
Niên niên nhị tam nguyệt
Đào lý nhất ban xuân"

Tạm dịch:

"An Nam muốn hỏi rõ
Xin đáp: phong tục thuần
Lễ nhạc nghiêm như Hán
Y quan chẳng kém Đường
Dao vàng cá nhỏ vẩy
Bình ngọc rượu lừng hương
Mỗi độ mùa xuân tới
Mận đào nở chật vườn".

Khi còn nắm chính quyền, ông cương quyết đề cao công tác giám sát, chống thói xu thời không dám can gián cái sai của nhà vua khiến quốc pháp bị xem thường. Với quan Ngự sử Trung đô úy Đỗ Tử Trừng là người có trách nhiệm, ông gửi lời trách cứ trong một bài thơ:

"Ô đài cửu hỹ, cấm vô thanh
Đốn sử triều đình phong hiến khinh
Tá vấn Tử Trừng nhu Trung úy
Thư sinh hà sự phụ bình sinh"

Tạm dịch:

"Đài gián từ lâu tiếng lặng thinh
Triều đình để phép bị coi khinh
Tử Trừng, Trung úy sao mềm yếu?
Kẻ sĩ không nên bỏ chí mình!"

Với nhà vua bất tài vô dụng, ông cương quyết phế bỏ. Kẻ giáo điều theo chính thống thì cho rằng thế là thoán nghịch, nhưng nhà sử học công minh thì không thể không thừa nhận đó là việc cần làm, nếu đứng trên lập trường vì quyền lợi đất nước, chứ không vì quyền lợi của một cá nhân, một dòng họ. Đối với nhà vua bất tài mà tham quyền cố vị, ông có bài thơ Ký Nguyên quân (gửi Nguyên quân) viết như sau:

"Tiền hữu dung ám quân
Hôn Đức cập Linh Đức
Hà bất tảo an bài
Đồ sử lao nhân lực"

Dịch là:

"Cũng một duộc vua hèn
Hôn Đức và Linh Đức
Sao chẳng sớm liệu đi?
Chỉ để người nhọc sức!".
(Bản dịch của Tuấn Nghi)

Trần Hưng Ðạo


Trần Hưng Đạo (1228-1300)



Sinh năm 1228, Trần Quốc Tuấn ra đời khi họ Trần vừa thay thế nhà Lý làm vua trong một đất nước đói kém, loạn ly. Trần Thủ Độ, một tôn thất tài giỏi đã xếp đặt bày mưu giữ cho thế nước chông chênh thành bền vững. Bấy giờ Trần Cảnh còn nhỏ mới 11 tuổi, vợ là Lý Chiêu Hoàng, vị vua cuối cùng của dòng họ Lý. Vì nhường ngôi cho chồng nên trăm họ và tôn thất nhà Lý dị nghị nhà Trần cướp ngôi. Trần Thủ Độ rất lo lắng. Bấy giờ Trần Liễu, anh ruột vua Trần Cảnh lấy công chúa Thuận Thiên, chị gái Chiêu Hoàng đang có mang. Trần Thủ Độ ép Liễu nhường vợ cho Cảnh để chắc có một đứa con cho Cảnh. Liễu nổi loạn. Thủ Độ dẹp tan nhưng tha chết cho Liễu. Song điều này không dẹp nổi lòng thù hận của Liễu. Vì thế Liễu kén thầy giỏi dạy cho con trai mình thành bậc văn võ toàn tài, ký thác vào con mối thù sâu nặng. Người con trai ấy chính là Trần Quốc Tuấn.

Thuở nhỏ, có người đã phải khen Quốc Tuấn là bậc kỳ tài. Khi lớn lên, Trần Quốc Tuấn càng tỏ ra thông minh xuất chúng, thông kim bác cổ, văn võ song toàn. Trần Liễu thấy con như vậy mừng lắm, những mong Quốc Tuấn có thể rửa nhục cho mình. Song, cuộc đời Trần Quốc Tuấn trải qua một lần gia biến, ba lần quốc nạn và ông đã tỏ ra là một bậc hiền tài. Thù nhà ông không đặt lên trên quyền lợi dân nước, xã tắc. Ông đã biết dẹp thù riêng, vun trồng cho mối đoàn kết giữa tông tộc họ Trần khiến cho nó trở thành cội rễ của đại thắng. Bấy giờ quân Nguyên sang xâm chiếm Việt Nam. Trần Quốc Tuấn đã giao hảo hòa hiếu với Trần Quang Khải. Hai người là hai đầu mối của hai chi trong họ Trần, đồng thời một người là con Trần Liễu, một người là con Trần Cảnh, hai anh em đối đầu của thế hệ trước. Sự hòa hợp của hai người chính là sự thống nhất ý chí của toàn bộ vương triều Trần, đảm bảo đánh thắng quân Nguyên hung hãn.

Chuyện kể rằng: thời ấy tại bến Đông, ông chủ động mời Thái sư Trần Quang Khải sang thuyền mình trò chuyện, chơi cờ và sai nấu nước thơm tự mình tắm rửa cho Quang Khải... Rồi một lần khác, ông đem việc xích mích trong dòng họ dò ý các con, Trần Quốc Tảng có ý khích ông cướp ngôi vua của chi thứ, ông nổi giận định rút gươm toan chém chết Quốc Tảng. Do các con và những người tâm phúc xúm vào van xin, ông bớt giận dừng gươm nhưng bảo rằng: Từ nay cho đến khi ta nhắm mắt, ta sẽ không nhìn mặt thằng nghịch tử, phản thầy này nữa! Trong chiến tranh, ông luôn hộ giá bên vua, tay chỉ cầm cây gậy bịt sắt. Thế mà vẫn có lời dị nghị, sợ ông sát vua. Ông bèn bỏ luôn phần gậy bịt sắt, chỉ chống gậy không khi gần cận nhà vua. Và sự nghi kỵ cũng chấm dứt. Giỏi tâm lý, chú ý từng việc nhỏ để tránh hiềm nghi, yên lòng quan để yên lòng dân, đoàn kết mọi người vì nghĩa lớn dân tộc. Một tấm lòng trung trinh son sắt vì vua, vì nước.

Vua giao quyền tiết chế cho Trần Quốc Tuấn. Ông biết dùng người tài như các anh hùng Trương Hán Siêu, Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Dã Tượng... đều từ cửa tướng của ông mà ra. Ông rất thương binh lính, và họ cũng rất tin yêu ông. Đội quân cha con ấy trở thành đội quân bách thắng.

Trần Quốc Tuấn là một bậc tướng cột đá chống trời. Ông đã soạn hai bộ binh thư: Binh thư yếu lược, và Vạn Kiếp tông bí truyền thư để dạy bảo các tướng cách cầm quân đánh giặc. Trần Khánh Dư, một tướng giỏi cùng thời đã hết lời ca ngợi ông :... "Lấy ngũ hành cảm ứng với nhau, cân nhắc cửu cung, không lẫn âm dương...". Biết dĩ đoản binh chế trường trận, có nghĩa là lấy ngắn chống dài. Khi giặc lộ rõ ý định gây hấn, Trần Quốc Tuấn truyền lệnh cho các tướng, răn dạy chỉ bảo lẽ thắng bại tiến lui. Bản Hịch tướng sĩ viết bằng giọng văn thống thiết hùng hồn, mang tầm tư tưởng của một bậc "đại bút".

Trần Quốc Tuấn là một bậc tướng tài có đủ tài đức. Là tướng nhân, ông thương dân, thương quân, chỉ cho quân dân con đường sáng. Là tướng nghĩa, ông coi việc phải hơn điều lợi. Là tướng chí, ông biết lẽ đời sẽ dẫn đến đâu. Là tướng dũng, ông sẵn sàng xông pha vào nơi nguy hiểm để đánh giặc, lập công, cho nên trận Bạch Đằng oanh liệt nghìn đời là đại công của ông. Là tướng tín, ông bày tỏ trước cho quân lính biết theo ông thì sẽ được gì, trái lời ông thì sẽ bị gì. Cho nên cả ba lần đánh giặc Nguyên Mông, Trần Quốc Tuấn đều lập công lớn.

Hai tháng trước khi mất, vua Anh Tông đến thăm lúc ông đang ốm, có hỏi:

- Nếu chẳng may ông mất đi, giặc phương Bắc lại sang xâm lấn thì kế sách làm sao?

Ông đã trăn trối những lời cuối cùng, thật thấm thía và sâu sắc cho mọi thời đại dựng nước và giữ nước:

- Thời bình phải khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc bền rễ, đó là thượng sách giữ nước.

Mùa thu tháng Tám, ngày 20, năm Canh Tý, Hưng Long thứ 8 (1300) "Bình Bắc đại nguyên soái"

Hưng Đạo đại vương qua đời. Theo lời dặn lại, thi hài ông được hỏa táng thu vào bình đồng và chôn trong vườn An Lạc, giữa cánh rừng An Sinh miền Đông Bắc, không xây lăng mộ, đất san phẳng, trồng cây như cũ...

Khi ông mất (1300), vua phong ông tước Hưng Đạo đại vương. Triều đình lập đền thờ ông tại Vạn Kiếp, Chí Linh, ấp phong của ông thuở sinh thời. Công lao sự nghiệp của ông khó kể hết . Vua coi như bậc trượng phu, trăm họ kính trọng gọi ông là Hưng Đạo đại vương.

Trần Hưng Đạo là một anh hùng dân tộc, một danh nhân văn hóa Việt Nam.

hình ảnh và sự kiện, Vua Khải Định


Lời thưa

Có thân hữu hỏi tôi tại sao chọn đề tài về vua Khải Định? Dường như câu hỏi hàm ý thắc mắc rằng vua Khải Định đâu phải là một khuôn mặt đáng chú ý trong lịch sử, và triều đại của ông có gì đặc biệt đâu để quan tâm?

Vâng, quả đúng như thế. Vấn đề tôi quan tâm là ở chỗ khác.

Thứ nhất, trong mấy năm trở lại đây, trên mạng lưới toàn cầu cũng như trên báo chí, nhiều hình ảnh của Việt Nam thời Pháp thuộc được phổ biến rộng rãi chưa từng có. Đó là một kho tài liệu rất quí giúp chúng ta có thể hiểu một thời quá khứ của đất nước qua nhiều lãnh vực khác nhau, vì một hình ảnh nói nhiều hơn cả trăm trang giấy. Tiếc thay, những hình ảnh đó đã không được chú thích đầy đủ, thậm chí, chú thích sai lầm.
Thứ hai, thời Khải Định là giao thời giữa cũ và mới, trong triều đình cũng như ngoài xã hội. Cái cũ chưa bị xóa đi hay sửa đổi và cái mới chỉ vừa bắt đầu, khác với thời Bảo Đại về sau. Tháng 10 năm 1932, vua Bảo Đại về nuớc cầm quyền. Qua năm 1933, vua đi thăm Bắc kỳ và nam Trung kỳ. Một nhà báo Pháp đã ghi lại những cuộc viếng thăm này trong một phóng sự, về sau xuất bản thành sách, và hai viên quan của triều đình Huế đã dịch ra tiếng Việt. Trong sách đó, khi đăng lại những hình ảnh dưới thời Khải Định – nghĩa là những hình ảnh của hơn mười năm về trước – tác giả đã gọi đó là “những hình ảnh ngày xưa”. Hồi bấy giờ mà đã gọi rằng xưa thì nay đối với chúng ta là đồ cổ. Cái tôi quan tâm là chút đồ cổ đó.

Trong khả năng hạn chế, tôi thu thập những hình ảnh đã được ghi nhận vào thời ấy, kết hợp với những tài liệu khả tín, để trình bày lại một cách trung thực những sinh họat có tính cách nghi lễ của triều Khải Định, từ đó chúng ta có thể thấy và hiểu được những gì vốn chỉ được nghe và hiểu một cách tam sao thất bản.

Thật là buồn cười khi thấy trên một tài liệu quảng cáo du lịch Huế cái cảnh du khách mặc áo đội mũ phường tuồng ngồi ăn cơm giữa cảnh hầu hạ của mấy cô gái mặc áo dài đội khăn vành với chú thích rằng đó là “Ăn cơm vua” (Royal meal)! Chuyện quảng cáo thương mãi thì nói làm gì, nhưng e người ta sẽ yên trí rằng đó là sự thật của quá khứ thì tủi hổ cho lịch sử và văn hóa Việt Nam quá. Cũng vậy, nếu trong một kịch bản điện ảnh hay sân khấu nào đó, mà có tác giả bắt mấy ông vua Nhà Nguyễn mặc y trang của vua Tàu và dùng ngôn ngữ của phim bộ Trung Quốc, Đài Loan, hay Hàn Quốc, thì thật là tội nghiệp cho Nhà Nguyễn.

Bởi thế, tập sách nhỏ này chỉ là sự thu nhặt hình ảnh của một thời, rải rác đây đó, và trình bày lại một cách có hệ thống với chú giải đáng tin cậy để cung cấp cho độc giả một cái nhìn trung thực hơn về những cảnh đã diễn ra trong một thời quá khứ.

Đến đây, xin cho phép tôi nói lên lời cảm ơn các ông Nguyễn Tấn Lộc và Ngô Công Đức ở Pháp, là những người có lòng nghĩ đến lợi ích văn hóa và lịch sử dân tộc, nên đã bỏ công phổ biến một số những hình ảnh tài liệu lên mạng lưới toàn cầu, giúp chúng tôi có thêm chất liệu căn bản để hoàn thành cuốn sách này.

Sau cùng, xin cảm ơn quí độc giả đã bỏ chút thì giờ để đọc sách này, và xin biết ơn những chỉ dẫn sai sót mà chúng tôi không thấy.

Trân trọng,
Võ Hương-An

1/ Đường đến ngai vàng của vua Khải Định

Sau khi kinh đô Huế bị thất thủ (23 tháng năm Ất Dậu, 7/5/1885) ) vua Hàm Nghi chạy ra vùng rừng núi Quảng Bình-Hà Tĩnh, cầm đầu cuộc kháng chiến Cần Vương. Không chiêu dụ được vua trở về, người Pháp đưa người con nuôi thứ hai của vua Tự Đức là Hoàng tử Chánh Mông lên làm vua (19/9/1885), lấy hiệu là Đồng Khánh. Ở ngôi được hơn ba năm ( 19/9/1885- 25/1/1889) thì vua băng hà lúc mới 25 tuổi, và con còn bé, Hoàng tử Bửu Đảo mới hơn 3 tuổi.

Dưới ảnh hưởng của người Pháp, triều đình Huế lập người con của vua Dục Đức -- Hoàng từ Bửu Lân -- lên làm vua, lấy hiệu là Thành Thái ( 1/2/1889- 3/9/1907).

Vua Thành Thái có tư tưởng chống Pháp, vì vậy năm 1907, lấy cớ nhà vua bị bệnh tâm thần, người Pháp gây áp lực buộc vua thoái vị và lập người con trai thứ 7 của ông là Hoàng tử Vĩnh San lên làm vua, lấy hiệu Duy Tân (5/9/1907- 3/5/1916).

Năm 1916, mới 16 tuổi, vua Duy Tân đã cùng với hai nhà cách mạng Trần Cao Vân và Thái Phiên mưu tổ chức một cuộc binh biến tại các tỉnh miền Trung để lật đổ sự thống trị của người Pháp. Cuộc binh biến thất bại vì bị nội phản, nhà vua bị bắt và bị đày cùng với phụ hoàng sang Phi châu. Triều đình Huế và người Pháp lập Phụng Hóa Công Bửu Đảo, con của vua Đồng Khánh, lên làm vua, lấy hiệu là Khải Định.



Kỵ binh vào đầu thời Khải Định qua nét vẽ màu nước của Gras.
Về sau, vua cho kỵ binh mặc sắc phục mới, áo đỏ, quần trắng, theo kiểu Tây phương.


Vua Đồng Khánh (1885-1889) Vua Thành Thái (1889-1917)

2/ Lễ đăng quang vua Khải Định

Vua Khải Định húy Nguyễn Phúc Bửu Đảo, là con trai trưởng của vua Đồng Khánh, sinh ngày 8/10/1885 (ngày 1 tháng 9 năm ất dậu). Khi vua Đồng Khánh mất năm 1889, Hòang tử Bửu Đảo mới hơn ba tuổi, và đấy cũng là lý do khiến ông không được nối ngôi trong hòan cảnh phức tạp lúc bấy giờ. Phải chờ 27 năm sau ngai vàng mới lại trở về tay ông.

Đêm 3/5/1916 vua Duy Tân bí mật rời khỏi hòang cung để tham gia cuộc binh biến lật đổ người Pháp, do hai ông Trần Cao Vân và Thái Phiên tổ chức. Ba ngày sau, vua bị quân Pháp bắt và tạm giam tại khu Mang Cá để chờ quyết định của triều đình và chính quốc. Ngai vàng bỏ trống.

Ngày 10/5/1916 Hội đồng Nhiếp chính và Hội đồng Tôn Nhơn đã họp và quyết định truất phế vua Duy Tân, đồng thời chọn Phụng Hóa Công Bửu Đảo làm người kế vị. Đề nghị này được gởi đến Toàn quyền Đông Dương là Roume, bấy giờ đang có mặt ở Huế để theo dõi tình hình. Sau khi điện báo cáo về Paris và nhận được chỉ thị từ chính quốc, Roume chấp thuận các đề nghị trên và thông báo cho triều đình hay.

Ngày 16/5/1916, triều đình làm lễ nhập cung cho vua mới. Hai giờ chiều hôm đó, một phái đoàn gồm có các ông: Đoàn Đinh, Thượng thư Bộ Hộ (đại diện quan văn); Hường Thỏa, Trung quân Đô thống (đại diện quan võ) ; Ưng Huy, Hữu Tôn Khanh của Tôn Nhơn Phủ (đại diện Hoàng tộc), cùng một số các quan và quân lính tùy tùng đi đến phủ Phụng Hóa ở làng An Cựu để rước Phụng Hóa Công vào cung. Ông Hoàng được đưa lên xe song mã, có năm kỵ binh cầm cờ dẫn đầu, và quan quân hộ tống, tiến về kinh thành. Trên đường đi, Phụng Hóa Công ghé vào Tòa Khâm sứ để chào cảm ơn Khâm sứ Charles, vì ông này đã thân hành đến phủ Phụng Hóa chúc mừng ngay từ sáng sớm.

Đám rước Phụng Hóa Công vào Đại Nội bằng cửa Hiển Nhơn , và dừng lại trước Đại Cung Môn (xem bản đồ đính kèm). Các vị Thượng thư mặc áo rộng xanh (áo thụng xanh), đầu đội khăn đóng đen, đang đứng chờ sẵn bên cửa cung rộng mở để đón chào. Ông Hoàng mặc áo rộng màu lục, đội khăn đóng đen, bước xuống xe, tiến qua Đại Cung môn, theo sau có các thượng thư.

Bên trong Đại Cung môn, trước sân điện Cần Chánh, các quan văn, võ thuộc hàng ấn quan mặc áo rộng xanh, đội khăn đóng đen, đã dàn sẵn hai bên để vái chào. Phụng Hóa Công đi vào điện Cần Chánh rồi qua điện Quang Minh là nơi ông sẽ tạm trú trong khi chờ đợi tiến hành những lễ nghi chính thức theo điển lễ triều đình. Thị vệ dâng trà, các Thượng thư vái chào rồi lui ra, nhường chỗ cho các quan khác vào tâu trình công việc. Địa vị của Phụng Hóa Công lúc này là một chuẩn-hòang-đế chứ chưa phải là một hoàng đế nên cách xưng hô cũng phải theo một phép tắc khác. Chẳng hạn các quan khi thưa bẩm không dùng chữ Tâu hay Tấu , mà dùng chữ Khải , vì Tâu hay Tấu chỉ dành cho vua mà thôi. Ông sẽ là một vị vua mới thay thế vua cũ mà không có quan hệ thừa kế nên người ta gọi ông là tân quân , để phân biệt với trừ quân là trường hợp con lên kế nghiệp vua cha.

Hôm sau, 17/5/1916, mới tảng sáng, Bộ Lễ đã lo đặt một cái bàn sơn vàng (hoàng án) ngay căn giữa của điện Cần Chánh. Trên đó, họ trân trọng bày bốn món quốc bảo:

- một cái trắp nhỏ sơn son thếp vàng đựng ngọc tỷ (ấn bằng ngọc); trên ngọc tỷ có khắc chín chữ Đại Nam Thụ Thiên Vĩnh Mạng Truyền Quốc Tỉ 大南受天永命

傳國璽

- một bộ hoàng bào.

- một cái hốt bằng ngọc trên có khắc hai chữ Vương Mạng 王命

- Một cuốn sách bằng vàng có tên là Thánh Chế Mạng Danh Kim Sách (gọi tắt là Kim sách) 聖製命名 金冊.

Tám giờ, tân quân mặc áo rộng màu lục, đội khăn đóng đen, ra điện Cần Chánh, đến tại chiếc bàn màu vàng xem xét các bảo vật trước sự hiện diện của các vị Thượng thư. Xong lui về thay lễ phục và các quan cũng rút lui để chuẩn bị cho buổi thường triều sắp diễn ra. Các bảo vật vẫn được trưng bày tại chỗ, dưới sự canh phòng cẩn mật.

Bấy giờ, trước sân điện Cần Chánh, trên những chiếc chiếu đã trải sẵn, các quan mặc áo rộng xanh, sắp hàng ngay ngắn chờ làm lễ. Ở giữa là lối đi, quan văn bên trái, quan võ bên phải (văn tả, võ hữu) , theo thứ tự cấp lớn đứng trước, cấp nhỏ đứng sau, theo phẩm sơn làm chuẩn, quay mặt vào bên trong điện. Tân quân lần này xuất hiện trong áo rộng màu vàng, và đội khăn đóng vàng.

Ông đứng ở gian thứ nhất bên trái (tả-nhất) , của điện Cần Chánh, quay mặt về hướng tây, nơi gian giữa có đặt cái bàn màu vàng với bốn bảo vật truyền quốc trên đó. Tân quân tiến đến trước bàn, bắt đầu lạy năm lạy. Cùng lúc đó, ở ngòai sân các quan cũng hướng vào trong điện lạy năm lạy

Xong năm lạy, tân quân quì xuống, trong khi bên ngoài các quan đứng nghiêm tại vị trí. Hai vị đại thần, một văn một võ, đã được triều đình đề cử, bước đến bên cái bàn màu vàng, chia nhau nâng ngọc tỷ, hoàng bào, và hốt ngọc, quì dâng lần lượt lên cho tân quân. Tân quân đưa hai tay tiếp nhận, nâng lên ngang trán, xá một cái, xong đưa lại cho các quan để trả về chỗ cũ.

Bấy giờ, một vị quan của Nội Các tiến đến bên bàn, mở trắp sơn son thếp vàng , lấy Kim sách ra, đem đến quì dâng trước tân quân. Ông lần giở Kim sách, tới trang kê 20 chữ viết với bộ nhật , theo thứ tự, tìm đến chữ thứ chín, đó là tên mới của vua. Ông nhẩm đọc và ghi nhớ, xong đứng dậy lui về vị trí ban đầu (gian tả-nhất) Trang sách vẫn được mở ra và để trên bàn. Các vị đại thần tiến đến trước bàn, quì xuống, kính cẩn nhìn vào trang Kim sách đang mở ra để cùng xác nhận tên mới của vua là đúng như đã ghi, xong họ lui ra, trở về vị trí cũ. Viên quan Nội Các lo chép lại tên mới của vua trong một cánh thiệp màu đỏ để dùng về sau. Xong, Kim sách được cho vào trắp và khóa lại. Bấy giờ, tân quân tiến đến trước bàn, vái ba vái. Đó là lễ tạ, dấu hiệu buổi lễ chấm dứt. Ở ngòai sân các quan cũng vái ba vái. Tân quân lui về nghỉ ở điện Quang Minh, các quan cũng giải tán. Các bảo vật được cho vào tủ khóa lại và một hội đồng gồm các đại thần ký giấy niêm phong.

Ngày hôm đó, nhân danh tân quân, Triều đình ra tờ chiếu như sau:

“Ngày 16 tháng 4 năm Duy Tân thứ 10 [17/5/1916]

Đức Thánh Tổ Nhơn Hòang Đế [Minh Mạng], vào năm thứ 4, đã có sáng kiến làm một bài thơ 20 chữ, lựa trong số những chữ có bộ nhật . Các chữ này được chạm vào những trang Kim sách để cho đời sau nhận lãnh. Trong lời tựa của Kim sách, Đức Minh Mạng đã dạy rằng khi một vị Hoàng đế lên nối ngôi sẽ chọn một trong các chữ đó làm tên chính thức. Bộ nhật là biểu tượng của đế vương. Cái tên của tân quân khi mới sinh sẽ chỉ còn dùng như tục danh. Di huấn này đã luôn luôn được cẩn trọng tuân thủ.

Sau khi ở ngôi sáu năm, Hoàng đế Duy Tân đã tự ý thoái vị. Các thành viên của Hội đồng Tôn Nhơn và các đại thần của triều đình, với sự đồng ý của quan Toàn quyền Đông Dương, sau khi tham khảo Chính phủ Cộng hòa Pháp quốc, đã đề nghị ta lên ngôi. Chọn ngày giờ tốt, ta đã ra lệnh cho các đại thần cung kính mở Kim sách. Chiếu theo nội dung thì chữ thứ chín , bên trái là bộ Nhật bên phải là chữ Thụ , là tên chính thức của ta . Về cái tên ta mang từ thời thơ ấu là Bửu Đảo 寶壔 , nay chỉ còn dùng như tục danh. Ta đã ra lệnh làm lễ kính cáo việc này tại đàn Nam Giao , đàn Xã Tắc, và tôn miếu của Liệt Thánh để bảo lưu cái tư tưởng vinh quang của Đức Hòang đế Minh Mạng trong di phẩm của Ngài. Ta ra lệnh thông báo những qui định ta vừa mới tiếp nhận này đến toàn thể quan lại và dân chúng Kinh đô cùng các tỉnh ( được rõ).”

Cái tên mới của tân quân theo Kim sách là Tuấn , Theo phép tắc, tên này được gọi là ngự danh, thuộc lọai trọng húy, vì vậy không bao giờ viết hẳn ra chữ mà phải dùng lối miêu tả theo kiểu chiết tự, như thấy rõ trong tờ chiếu vừa nói.

Ngay hôm Phụng Hóa Công nhập cung (16/5/1916), các quan Nội Các đã lo tìm những chữ có ý nghĩa tốt, liệt kê ra và dâng lên để tân quân lựa chọn làm niên hiệu của triều đại mới. Một bản sao cũng được gởi đến Hội đồng Thượng thư để các vị ấy xem xét. Ngay hôm đó Nội Các báo cho Hội đồng Thượng thư biết rằng trong danh sách dâng lên, hai chữ Khải Trung đã được chiếu cố, nhưng tân quân dùng bút son khoanh tròn chữ Khải , gạch bỏ chữ Trung, và thay vào đó bằng chữ Định . Như vậy, ý của tân quân là muốn chọn hai chữ Khải Định , -- có nghĩa là khởi đầu một thời thanh bình và ổn định -- để làm niên hiệu.

Ngày 18/5/1916 ( 17 tháng 4 bính thân) triều đình thiết đại triều nghi tại điện Thái Hòa để chính thức làm lễ đăng quang. Mọi việc đều do Bộ lễ chủ trì sắp xếp với sự tham gia của các Bộ liên hệ. Tại gian giữa của điện Thái Hòa người ta đặt hai cái bàn màu vàng, và kế đó, ở gian tả-nhất, đặt hai cái bàn màu đỏ. Các quan Bộ Lễ mang trắp sơn son thếp vàng đựng Kim sách và một cái trắp khác đựng hạ biểu để trên cái bàn vàng thứ hai. Hai cái bàn đỏ do Nội Các phụ trách. Trên bàn thứ nhất, Nội Các mang để một cái trắp đựng cái ấn bằng ngọc, trên có khắc bốn chữ Hòang Đế Ngọc Tỉ 皇帝玊璽 , và một cái kim phụng đồng đựng ân chiếu và trên chiếc bàn đỏ thứ hai là một hộp son dùng để đóng ấn.

Bên ngòai, từ sân Đại triều nghi ra cho đến bên trong Ngọ Môn, Bộ Lễ đã cho dàn bày nghi trượng đúng nghi thức qui định, nào quân hầu, tàn, lọng, lỗ bộ, đại nhạc v.v. Chỉ có các ông Hoàng và 5 viên quan có phận sự đặc biệt được đứng trong điện Thái Hòa, mà thôi. Trong năm người đó, một người đọc Kim sách, là Hữu Tôn Khanh Ưng Huy, và một người đọc hạ biểu là Tham Tri Lưu Đức Xưng, đang giữ chức Toản tu ở Quốc Sử Quán; còn ba người kia là quan Nội Các túc trực phụ giúp khi hành lễ. Tất cả đều đứng ở căn tận cùng phía đông, tựa lưng vào bức đố. Tất cả các quan văn,võ còn lại đều theo thứ bậc mà sắp hàng trên sân, quan văn bên trái, quan võ bên phải. Các Tôn tước sắp hàng chung với quan võ.

Khi mọi việc sắp xếp đâu vào đấy, hai viên quan, một thuộc Bộ Lễ, một thuộc bên võ, lần lượt xướng to lên:

- Tấu: Trung nghiêm 奏中嚴! (Tâu: bên trong đã nghiêm)

- Tấu: Ngọai chỉnh 奏外整! (Tâu: bên ngoài đã chỉnh tề)

Bấy giờ người ta mới mời vua ra. Từ chỗ ở là điện Quang Minh, vua đi qua điện Cần Chánh. Cửa điện chưa mở, hai người lính hầu gõ cặp sanh và hô to:

- Giá hạ 駕下! (Vua đến)

Lập tức cửa mở ra, vua bước vào điện, đi đến ngồi trên chiếc sập sơn son thếp vàng kê ở căn giữa. Một viên Vệ úy theo cửa bên phải của Đại Cung Môn đi ra, hai tay cầm trường kiếm đưa lên trước mặt và hô to

- Hộ vệ bài loan giá 護衛俳鑾駕! (Quân hộ vệ, hãy sẵn sàng xe vua đi)

Liền có tiếng “Dạ” đáp lại rập ràng vang lên.

Viên quan truyền lệnh xong bèn trở vào, thu gươm lại, quì trước sân hô to:

-Tấu: Thỉnh thăng liễn 奏請陞輦! (Tâu: xin mời vua lên liễn)

Vua bước xuống thềm điện và lên ngồi trên liễn. Sau khi vua đã an tọa, viên Vệ úy lại hô “Dịu” (nâng lên một cách nhẹ nhàng). Mười sáu người lính lập tức cúi mình xuống từ tốn nâng các tay đòn lên và gánh chiếc liễn đi. Viên vệ úy dẫn đầu đòan rước, tiểu nhạc được tấu lên suốt lộ trình. Lúc bấy giờ chuông và trống trên lầu Ngọ Môn cũng được đánh lên, báo hiệu vua đang thăng điện.

Khi xa giá đến thềm phía bắc (tức mặt sau) của điện Thái Hòa thì dừng lại, chiêng trống trên lầu Ngọ Môn cũng vừa ngưng. Mọi việc được tính toán kỹ, diễn ra rất là ăn khớp, nhịp nhàng. Vua xuống liễn, đi vào điện và bước lên ngồi trên ngai.

Lúc đó là tám giờ, vừa lúc, Khâm sứ Trung Kỳ, Charles, dẫn đoàn tùy tùng, gồm những quan chức cao cấp người Pháp đang làm việc tại Huế, xuống xe trước cửa Ngọ Môn. Đại diện triều đình là Thượng thư Bộ Binh Nguyễn Hữu Bài và Thượng thư Bộ Học Hồ Đắc Trung đón phái đoàn tại đầu cầu Kim Thủy (bên ngòai Ngọ Môn) và hướng dẫn vào điện Thái Hòa. Khâm sứ Charles chào vua; vua đứng trên bệ hơi nghiêng mình đáp lễ.

Đại diện Chính phủ Pháp, Khâm sứ Charles đọc diễn văn, chào mừng vua mới, không quên kể công nước Pháp, và bày tỏ hy vọng một sự hợp tác tốt đẹp giữa hai nước … Sau khi vua đáp từ, phái đòan Pháp đứng lui phía sau, phía tay trái của vua.

Buổi lễ đăng quang theo nghi thức triều đình bắt đầu.

Viên quan Bộ lễ phụ trách điều khiển chương trình bắt đầu xướng:

1 Bài ban 俳班 (chỉnh đốn hàng ngủ ngay thẳng)

2 Ban tề 班齊 (quay mặt về phía ngai vàng)

3 Cúc cung bái 鞠躬拜 (lạy năm lạy)

4 Hưng (đứng lên)

5 Bình thân 平身(đứng thẳng người)

6 Hành tấn quang lễ 行晉光禮 (làm lễ đăng quang)

7 Bách quan giai quị 百官皆跪 ( Tất cả các quan đều quì xuống)

Bấy giờ, một viên quan Nội Các bước đến, mang trắp đựng Kim sách để qua bên bàn vàng thứ nhất, xong lui ra một bên, chờ. Khi đó, Hữu Tôn Khanh Ưng Huy, người được triều đình cử ra đọc Kim sách cũng bước ra, hướng mặt về phía ngai vàng và quì xuống, tiếp nhận Kim sách viết trên giấy vàng do một quan Nội Các trao lại, mở ra sẵn sàng. Sau tiếng xướng Tuyên sách 宣冊 (đọc sách) của viên quan Bộ Lễ, quan Hữu Tôn Khanh bắt đầu đọc:

Ngày 17 tháng 4 măm Bính Thìn, năm Duy Tân thứ 10 [18/5/1916].

Chúng tôi, các Hòang tử và Quận công của Hoàng tộc, các thành viên của Hội đồng Tôn Nhơn, các thành viên của Hội đồng Nhiếp chính, cùng toàn thể quan lại lớn nhỏ trong triều và các tỉnh, cung kính cúi đầu xin hân hạnh bày tỏ như sau . . .

Nội dung của Kim sách ghi nhận rằng sau biến cố bất ngờ (ám chỉ vụ vua Duy Tân), ngai vàng bỏ trống; đất nước không thể không người làm chủ. Nhận thấy Phụng Hóa Công là người thông minh đức độ, nên toàn thể triều đình và dân chúng đã thỉnh cầu Phụng Hóa Công lên ngôi trị vì để đem lại hạnh phúc cho toàn dân và thái bình cho đất nước.

Tuyên xong, Kim sách được trao lại cho quan Nội Các đem trả lại trong trắp, xong cả hai lui về vị trí cũ, đứng sát vào bức đố. Viên chấp sự lại xướng:

7 Phủ phục 俯伏 ( cúi mình xuống)

8 Hưng 興 ( đứng lên)

9 Bình thân 平身(đứng thẳng người}

10 Cúc cung bái 掬躬拜 ( lạy năm lạy)

11 Hành khánh hạ lễ 行慶賀禮 (làm lễ mừng)

12 Bách quan giai quị 百官皆跪 ( tất cả các quan quì xuống)

Đến đây, một quan Nội Các khác bước đến căn tả-nhất, nơi có hai cái bàn đỏ, mang cái trắp đựng tờ hạ biểu đem để trên cái bàn vàng thứ nhất (đã có Kim sách trên đó), xong bước lui vài bước. Tham Tri Lại Đức Xứng -- ỉgười được triều đình cử ra đọc hạ biểu – tiến ra giữa điện, hướng về ngai vàng, quì xuống, tiếp nhận tờ hạ biểu viết trên giấy đỏ từ quan Nội Các, mở ra và chờ có tiếng xướng Độc hạ biểu 讀賀表\plain (đọc hạ biểu) rồi mới bắt đầu đọc. Hạ biểu là một hình thức diễn văn chúc mừng của triều đình và thần dân đối với nhà vua nhân lễ đăng quang. Sau khi hạ biểu được đọc xong, các quan phụ trách lui về vị trí cũ.

Ngòai sân, một viên quan thuộc Bộ Lại bước ra khỏi hàng, quì trên lối đi ở giữa –gọi là dũng đạo -- hướng vào điện hô lớn:

13 Thỉnh dụng ngọc tỉ 請用玉璽 (kính mời dùng ấn ngọc)

Ở trong điện, nghe tiếng xướng đó, hai viên quan Nội Các trực sẵn, bước đến cái bàn có ngọc tỉ, mở trắp lấy ngọc tỉ in vào hộp son rồi đóng vào ân chiếu . Ân chiếu này là một tuyên cáo về việc lên ngôi của vua, và công bố niên hiệu mới -- Khải Định -- cho thần dân được rõ. Cùng lúc với việc đóng ngọc tỉ vào ân chiếu, chín phát ống lệnh nổ vang trước Kỳ đài, báo hiệu một triều đại mới bắt đầu.

Sau lễ đóng ngọc tỷ, một vị quan thuộc Bộ lễ bước ra khỏi hàng, quì giữa sân, hô lớn:

14 Tấu: khánh hạ lễ thành 奏慶賀禮成 (Tâu: lễ mừng đã xong)

Vua bước xuống ngai, ra khỏi điện Thái Hòa, trở về điện Cần Chánh. Theo chân nhà vua có Khâm sứ Trung kỳ, các quan chức Pháp, các ông Hoàng và các vị đại thần. Nhà vua đã cho dọn dẵn một bữa tiệc mừng tại điện Cần Chánh để thết đãi các quan khách cao cấp nhân ngày lễ đăng quang.

Trong khi tại điện Cần Chánh yến tiệc diễn ra thì tại điện Thái Hòa các quan có phận sự đang lo hoàn tất nhiệm vụ còn dang dở. Ngay khi vua vừa xây lưng rời khỏi điện Thái Hòa thì một quan của Nội Các đã bưng cái trắp đựng Kim sách và cái trắp đựng hạ biểu giao ngay cho các Thị vệ để mang về điện vua ở.

Hai quan Nội Các khác mang trắp đựng ngọc tỉ vào điện Cần Chánh, để trên một cái bàn đặt tại căn tả-nhất. Các quan Bộ Lại sẽ mang các bản phó ân chiếu đến đóng ngọc tỉ rồi mới gởi đi các tỉnh (mỗi tỉnh một bản) để bố cáo cho tòan dân biết một triều đại mới bắt đầu.

Một quan Nội Các tiến ra căn giữa điện Thái Hòa, đứng chếch về bên trái một chút, mặt hướng về phía Bắc --nơi có ngai vàng -- quì xuống và nói to:

- Tấu: thỉnh lãnh chỉ 奏請領旨 (Tâu: xin nhận chỉ ). Nói xong, ông ta đứng dậy, xoay người ra phía ngoài sân sân điện Thái Hòa, hô lớn :

15 Hữu ti dĩ chiếu thơ ban thị trung ngọai 有司以詔書頒示中外 (các quan có phận sự hãy mang chiếu thơ ban bố khắp trong ngòai ) Truyền lệnh xong, ông ta xoay người lại, đi về phía trái của điện Thái Hòa, đứng gần sát bức đố.

Một quan Bộ Lại và một quan Bộ Hộ bước ra khỏi hàng, đến bên cái bàn màu đỏ mang kim phụng đồng --có ân chiếu trong đó-- đem để trên long đình sắp sẵn ngoài thềm điện, có lính tráng cầm lọng và vũ khí theo hầu, rước kim phụng đồng ra Phu Văn Lâu, có ban nhạc đi theo tấu mừng. Tại đây, ân chiếu sẽ được niêm yết trong ba ngày, có lính canh gác ngày đêm, để cho toàn thể dân chúng được rõ, sau đó cũng chính hai viên quan cùng quân lính và ban nhạc vừa nói, lại rước ân chiếu đem về giao cho Nội Các, theo đúng nghi thức như khi rước đi.

Các quan chức thuộc Bộ Lại và Bộ Lễ được phân nhiệm sẽ phối hợp với nhau chuyển bản sao ân chiếu đến các tỉnh. Khi ân chiếu đến nơi, quan đầu tỉnh phải tổ chức lễ đón mừng ân chiếu một cách long trọng tại hành cung và việc này phải được báo cáo ngay về Bộ một cách đầy đủ.

tư thế ban tề, sẵn sàng làm lễ. Sân đã được trải chiếu sẵn.

Các quan cấp nhỏ (thuộc quan) sắp hàng trên sân Đại triều nghi chuẩn bị làm lễ. Các bia đá nhỏ là phẩm sơn.

Ban đại nhạc trên sân Đại Triều nghi đang trình tấu

Trong Đại Triều nghi, nghi trượng phải được dàn bày đầy đủ với voi, ngựa, tàn, lọng, cờ, lỗ bộ, đại nhạc. Trong hình, kỵ binh đang tập trung bên trong Ngọ Môn để dàn hầu.

Hai voi này dùng dàn hầu trong Đại Triều nghi

Lính phụ trách tàn, lọng và lỗ bộ đang tập trung bên trong Ngọ Môn để dàn hầu.

Ban tiểu nhạc đang chờ ở cửa Nhật Tinh để theo hầu xa giá ra điện Thái Hòa. Đại Cung môn ở giữa hai cửa Nhật Tinh và Nguyệt Anh. Phía sau là bức tường của Tử Cấm thành.

B.A.V.H., No3, 1942

Bên phải là trang chính của Thánh Chế Ngự Danh Kim Sách, có tựa đề là Nhựt Tự Bộ Nhị Thập, kê 20 tên vua viết với bộ nhựt, trong đó, ngự danh của vua Khải Định là chữ thứ chín, có gạch dưới (VHA).

B.A.V.H., No3, 1942 Trắp đựng Kim sách về việc lên ngôi của vua Gia Long. Mỗi vua Nhà Nguyễn đều có một Kim sách như thế.

Từ Điện Cần Chánh ra điện Thái Hòa, vua di chuyển bằng liễn do lính gánh. Phía trước, viên Vệ úy đang điều khiển việc gánh liễn.

Liễn vua đã đến hiên sau của điện Thái Hòa. Vua xuống liễn để đi vào điện

Ngai vàng đặt trong gian giữa của điện Thái Hòa

Phái đòan Pháp (Khâm sứ Trung kỳ, có khi có cả Tòan quyền Đông Dương) ra về sau khi dự lễ tại điện Thái Hòa. Chỉ vào những dịp long trọng họ mới dự.

Tòa Khâm sứ Huế (thường gọi tắt là Tòa Khâm), hồi đầu thế kỷ 20, chưa tân trang. Đây là cơ quan quyền lực cao nhất của chính quyền Bảo hộ tại miền Trung, cạnh triều đình Huế. Mọi quyết định quan trọng tại Trung kỳ đều phát xuất từ nơi này, kể cả ngai vàng.

Kim phụng đồng (Hình vẽ của họa sĩ Tôn Thất Sa, trong BAVH., No 4, 1922)

Phu Văn Lâu, hồi đầu thế kỷ 20,

(Tranh màu nước của Gras,BAVH, No4, 1915)

Phu Văn Lâu ngày nay. (Ảnh T.T.Tuấn)

Phu Văn Lâu được kiến tạo từ đời Gia Long (1819) nhưng chính vua Minh Mạng là người chỉ định vai trò của nó, dùng làm nơi niêm yết những chiếu, chỉ, mệnh lệnh của nhà vua và kết quả các kỳ thi Đình (Tiến sĩ). Xưa, trước Phu Văn Lâu hai bên trái phải có bia đề “khuynh cái hạ mã” buộc mọi người đi ngang qua phải nghiêng nón và xuống ngựa để tỏ ý kính trọng.

Khúc Thừa Dụ

Khúc Thừa Dụ với công cuộc khôi phục quyền tự chủ nước Việt thế kỷ 10

Cuối thế kỷ thứ 9, triều đình Trường An đổ nát. Nạn cát cứ của các tập đoàn quân phiệt phong kiến (phiên trấn) ngày càng ác liệt. Khởi nghĩa Hoàng Sào (874 - 884) đã làm lung lay tận gốc nền thống trị của nhà Đường. ở miền tây - nam (Vân Nam), Nam Chiếu cường thịnh, trở thành một nước lớn, luôn luôn đánh cướp đất An Nam. Cuối năm 862 đầu năm 863, Nam Chiếu đem 50 vạn quân xâm lấn An Nam, chiếm phủ thành Tống Bình; nhà Đường bỏ An Nam đô hộ phủ, chỉ lo phòng giữ Ung Châu. Ba năm trời, An Nam bị quân Nam Chiếu chiếm, chính quyền nhà Đường vì hèn yếu đã tự thủ tiêu quyền thống trị của mình trên đất Việt. Các hào trưởng địa phương người Việt tự mình đem quân chống lại quân Nam Chiếu. Và điều đó đã châm ngòi cho phong trào đấu trành giành quyền tự chủ dân tộc của dân Việt suốt ba thế kỷ 7, 8, 9 sau một đêm dài tăm tối.

Sau khi Độc Cô Tổn, viên Tiết độ sứ ngoại tộc cuối cùng rời khỏi đất An Nam, chớp thời cơ chính quyền trung ương nhà Đường rệu rã, chính quyền đô hộ như rắn mất đầu, nhân dân Việt lại một lần nữa kiên quyết đứng dậy tự quyết định lấy vận mệnh của đất nước. Hào trưởng Hồng Châu là Khúc Thừa Dụ, được dân chúng ủng hộ, đã tiến quân ra chiếm đóng phủ thành Tống Bình (Hà Nội); tự xưng là Tiết độ sứ, xóa bỏ thực chất của chính quyền đô hộ nhưng khéo léo lợi dụng bộ máy và danh nghĩa của bọn đô hộ cũ để chuyển sang giành quyền độc lập dân tộc một cách vững chắc.

Khúc Thừa Dụ (? - 907) dựng nền độc lập

Việt sử thông giám cương mục (Tiền biên, quyển 5) viết : "Họ Khúc là một họ lớn lâu đời ở Hồng Châu (*). Khúc Thừa Dụ tính khoan hòa, hay thương người, được dân chúng suy tôn. Gặp thời buổi loạn lạc, nhân danh là hào trưởng một xứ, Thừa Dụ tự xưng là Tiết độ sứ...". Mở đầu chính sách ngoại giao khôn khéo trong ứng xử với triều đình phong kiến phương Bắc: "độc lập thật sự, thần thuộc trên danh nghĩa", Khúc Thừa Dụ, sau khi đã nắm được quyền lực thực tế trên miền đất đai "An Nam" cũ trong tay, vẫn giữ danh nghĩa "xin mệnh nhà Đường" buộc triều đình nhà Đường phải công nhận sự đã rồi. Ngày 7-2-906 vua Đường phải phong thêm cho Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ Khúc Thừa Dụ tước "Đồng bình chương sự". Khúc Thừa Dụ phong cho con là Khúc Hạo chức vụ "Tĩnh Hải hành quân tư mã quyền tri lưu hậu" tức là chức vụ chỉ huy quân đội và sẽ thay thế cha nắm quyền hành Tiết độ sứ.

Tuy còn mang danh hiệu một chức quan của nhà Đường, về thực chất, Khúc Thừa Dụ đã xây dựng một chính quyền tự chủ bãi bỏ quan lại chế độ cũ kết thúc về cơ bản ách thống trị hơn một nghìn năm của phong kiến phương Bắc.

Lịch sử ghi nhớ công lao của Khúc Thừa Dụ như là một trong những người đặt cơ sở cho nền độc lập dân tộc. Ngày 23-7-907, Khúc Thừa Dụ mất. Mặc nhiên, Khúc Hạo nối nghiệp cha.

Khúc Hạo (? - 917) - Nhà cải cách lớn

Khúc Thừa Dụ mất, Khúc Hạo lên thay nắm quyền Tiết độ sứ. Ngày 1-9-907, nhà Hậu Lương, lúc này đã thay thế nhà Đường ở Trung Quốc cũng phải công nhận ông làm "An Nam đô hộ, sung Tiết độ sứ".

Nối nghiệp cha và nối chí cha, Khúc Hạo đã đảm đương một cách tài giỏi trọng trách củng cố nền tự chủ còn non trẻ của dân tộc Việt Nam.

Trung Quốc sau khi Chu Ôn cướp ngôi nhà Đường, đã chính thức bị chia sẻ thành cục diện "Năm đời mười nước" (ngũ đại thập quốc). Giáp giới nước Việt, miền Quảng Châu lúc này nằm dưới quyền cát cứ của cha con anh em Lưu ẩn.

Tuy rằng, nhà Hậu Lương đã công nhận chức Tiết độ sứ của Khúc Hạo, nhưng năm sau (908) Hậu Lương lại cho Lưu ẩn kiêm chức "Tĩnh hải quân tiết độ, An Nam đô hộ", không thôi từ bỏ ý định duy trì ách đô hộ và dã tâm xâm lược lại nước Việt.

Phát huy ý chí tự lập tự cường của cha ông, Khúc Hạo kiên trì giữ vững đất nước, chăm lo xây dựng nền tảng độc lập của dân tộc, tiến hành nhiều cải cách quan trọng về các mặt dựa trên quan điểm "Chính sự cốt chuộng khoan dung, giản dị, nhân dân đều được yên vui" (Việt sử thông giám cương mục).

Khoan dung, tức là không thắt buộc, khắt khe quá đối với nhân dân, chống bọn tham ô quan lại, một tệ nạn lớn của thời Bắc thuộc.

Giản dị, là không làm phiền hà, nhiễu dân bởi quá nhiều thủ tục hành chính quan liêu...

Yên vui, "an cư lạc nghiệp" là lý tưởng của nếp sống nông dân nơi làng xóm.

Tóm lại, đó là một đường lối chính trị thân dân. Nó chứng tỏ bất cứ một phong trào dân tộc chân chính nào cũng phải có một nội dung dân chủ nào đó.

Khúc Hạo đã sửa đổi lại chế độ điền tô, thuế má lao dịch nặng nề của thời thuộc Đường. Ông ra lệnh "bình quân thuế ruộng, tha bỏ lực dịch, lập sổ hộ khẩu, kê rõ quê quán, giao cho giáp trưởng (quản giáp) trông coi".

Từ một mô hình của chính quyền đô hộ, nhằm khắc phục tính phân tán của quyền lực thủ lĩnh địa phương, Khúc Hạo đã có những cố gắng đầu tiên hết sức lớn lao nhằm xây dựng một chính quyền dân tộc thống nhất từ trung ương cho đến xã. Ông chia cả nước thành những đơn vị hành chính các cấp: lộ, phủ, châu, giáp, xã. Mỗi xã có xã quan, một người chánh lệnh trưởng và một người tá lệnh trưởng. Một số xã ở gần nhau trước gọi là hương nay đổi là giáp, mỗi giáp có một quản giáp và một phó tri giáp để trông nom việc thu thuế. Theo sách An Nam chí nguyên Khúc Hạo đặt thêm 150 giáp, cộng với những giáp có trước cả thảy gồm 314 giáp.

Vì nhu cầu chống ngoại xâm, các hào trưởng địa phương phải phục tùng chính quyền trung ương nhưng vẫn có xu hướng cát cứ và họ Khúc cũng như nhiều triều đại độc lập tiếp theo, vẫn phải dựa vào họ để củng cố chính quyền ở các cơ sở. Nhưng xu thế của lịch sử Việt Nam, mở đầu từ cuộc cải cách của Khúc Hạo, là độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất quốc gia. Công cuộc xây dựng nền tự chủ, thống nhất của Khúc Hạo mở ra một thời kỳ phát triển mới của xã hội Việt Nam mà các triều đại sau đó sẽ hoàn thành.

Khúc Hạo mất năm 917, con là Khúc Thừa Mỹ lên thay. Năm 930, quân Nam Hán sang xâm lược, Khúc Thừa Mỹ bị bắt, phủ thành Đại La (Hà Nội) bị địch chiếm.
Họ Khúc khôi phục quyền tự chủ được 25 năm.

Giáo sư trần quốc vượng

------------------------------------------------------------------

(*) Hồng Châu là tên đất đời Lý Trần (đời Đường có lẽ là đất huyện Chu Diên), đời Lê là hai phủ Thượng Hồng và Hạ Hồng, sau là đất Bình Giang, Ninh Giang tỉnh Hải Dương. Hiện nay vẫn còn đình thờ họ Khúc ở Cúc Bồ (Ninh Giang). Làng đó vẫn còn họ Khúc

Kiến Phúc

Kiến Phúc (1869 -1884)


Niên hiệu

Kiến Phúc

Năm sanh, năm mất

1869-1884

Giai đoạn trị vì

1884

Miếu hiệu

Giảng Tông Nghị Hoàng Ðế

Tên Húy

Nguyễn Phúc Hạo, Nguyễn Phúc Ưng Ðăng

Ông Dưỡng Thiện, tên là Ưng Ðăng là con nuôi thứ ba của vua Tự Ðức lên ngôi vua lấy niên hiệu là Kiến Phúc. Vua chỉ có 15 tuổi, mọi việc đều do ông Tường và ông Thuyết quyết định cả.

Có nhiều ông quan thấy vậy liền trả ấn lại cho triều đình, từ quan rồi đi chiêu mộ binh mà đánh Tây.

Có sách nói rằng Ưng Ðăng được tin triều đình tới rước mình về làm Vua, Ưng Ðăng sợ quá chui xuống gầm giường trốn, mọi người phải lôi ra, ông la hét khóc lóc thảm thiết nhưng vẫn bị đem lên kiệu đưa về cung. Ông viện đủ mọi cách để từ chối nhưng vẫn bị hai ông Tường và Thuyết ép phải lên ngôi. Vua Kiến Phúc ở ngôi được có hơn 6 tháng thì phải bệnh mất ngày 6 tháng 4 năm Giáp Thân (1884). Có sách nói rằng Vua bị ông Tường thuốc chết vì Vua bắt gặp ông Tường đang tư tình với bà phi Nguyễn Thị Hương, để bịt miệng Vua, lợi dụng lúc Vua đang bệnh ông Tường bỏ thuốc độc vào thuốc trị bệnh của Vua.

Sau khi ký hiệp ước Quí Mùi với nước ta, quan Toàn quyền Harmand ra Bắc kỳ để sửa sang sự cai trị, lập ra đội lính tuần cảnh, tục gọi là lính "khố xanh" và bãi đội lính cờ vàng mà Thiếu tướng Bouet đã mộ được. Quân Pháp tiến chiếm Sơn Tây, Bắc Ninh, Ðáp cầu, Hưng Hóa, Tuyên Quang, ...

Vì biết Tàu quá đông nên Pháp cũng muốn làm hoà, chánh phủ Pháp sai Trung tá Fournier lên Thiên Tân để nghị hoà với Tổng đốc Tàu Lý Hồng Chương. Hai bên ký hoà ước Fournier năm Giáp Thân (1884) trong đó Tàu chấp nhận là Pháp bảo hộ nước Việt Nam.

Nước Pháp có sai ông Công sứ Patenôtre từ Tàu sang Huế để sửa lại tờ hoà ước của ông Harmand đã ký ngày 23 tháng 7 năm Quí Mùi (1883), rồi đến ngày 13 tháng 5 năm 1884 Dương lịch, ông Patenôtre cùng với ông Nguyễn Văn Tường, ông Phạm Thận Duật và ông Tôn thất Phan ký tờ hoà ước mới (hoà ước Patenôtre), trong đó Triều đình Huế chấp nhận sự bảo hộ của Pháp và chia nước ra làm 2 khu vực là Trung kỳ và Bắc kỳ, trên giấy tờ thì mổi kỳ có một cách cai trị khác nhau (Trung kỳ bảo trợ chứ không phải bảo hộ) nhưng trên thực tế thì từ từ Pháp bảo hộ tất cả, Triều đình Huế chỉ là hư vị mà thôi. Pháp bắt Việt Nam phải trả cái ấn của Tàu phong cho vua Việt Nam nhưng ông Nguyễn Văn Tường thương lượng để đem cái ấn đó ra mà nấu chảy.

Lê Chiêu Tông

Lê Chiêu Tông (1516-1522)

Niên hiệu: Quang Thiệu

Vua húy là Y, lại có tên nữa là Huệ, cháu bốn đời của Lê Thánh Tông, cháu đích tôn của Kiến vương Tân, con trưởng của Cẩm giang vương Sùng. Mẹ là Hoàng hậu Trịnh Thị Loan, người xã Phi Bạo, huyện Thanh Chương (Nghệ An). Ông sinh ngày 4 tháng 10 năm Bính Dần (1506). Khi Tương Dực đế bị giết năm Bính Tý (1516) không có con nối, quan đại thần là Lê Nghĩa Chiêu, Trịnh Duy Sản đón lập lên làm vua, khi đó ông mới 11 tuổi Nhưng khi đó kinh thành bị tàn phá, Trịnh Duy Sản phải rước vua vào Tây Kinh. Trần Cảo thấy kinh thành bỏ không đã chiếm lấy và tự xưng làm vua. Thấy vậy triều đình sai Trịnh Duy Sản, Nguyễn Hoằng Dụ, Trịnh Tuy... Vậy đánh Trần Cảo. Trần Cảo phải chạy lên đất Lạng Nguyên (Lạng Sơn).

Triều Lê sau khi dẹp tan được loạn Trần Cảo thì nội bộ lại càng lục đục, đánh giết lẫn nhau. An Hòa hầu Nguyễn Hoàng Dụ và Vĩnh Hưng Trịnh Tuy đem quân đánh nhau liên miên. Dân chúng khổ sở cảnh loạn lạc, đầu rơi máu chảy: "Giặc bên ngoài chưa yên, các quyền thần đánh lẫn nhau, giết nhau dưới cửa khuyết, máu giây đầy chốn kinh sư, mặt trời vàng tối, vận nước ngày một suy".

Trước tình hình đó, Nho giáo ngày một suy vi, nhường chỗ cho Phật giáo và Đạo giáo cùng các thú ma thuật ngày càng phát triển.

Trong số các thế lực phò lập vua, mỗi người đều có những mưu đồ riêng. Càng về sau bằng tài năng quân sự nổi bật và sự khôn khéo thâu tóm quyền hành, Mạc Đăng Dung đã ngày càng trở thành một n hân vật cột trụ trong triều. Vua Lê Chiêu Tông phải tự thân hành đến phủ đệ của Mạc Đăng Dung gia phong cho ông làm Thái phó... Quyền uy của Mạc Đăng Dung ngày một lớn, người người đều hướng về họ Mạc. Đăng Dung cho con gái nuôi vào hầu vua thực ra để dò xét coi giữ. Con trưởng của Đăng Dung là Đăng Doanh làm chức Dục Mỹ hầu trông coi điện Kim Quang. Từ đó Đăng Dung đi bộ thì che lọng phượng dát vàng, đi thủy thì dùng thuyền rồng dây kéo, ra vào cung cấm như đi vào chỗ không người, không kiêng sợ gì...

Trước tình cảnh ấy, vua Chiêu Tông mưu ngầm với Trịnh Tuy tìm cách triệt hạ thế lực của họ Mạc. Kế hoạch bại lộ, vua bỏ chạy khỏi kinh thành. Mạc Đăng Dung bèn cùng với các quần thần khác lập em của Chiêu Tông tên là Xuân lên ngôi vào ngày 1 tháng 8 năm Nhâm Ngọ (1522). Chiêu Tông thì bị giáng xuống làm Đà Dương vương rồi bị giết. Như vậy Chiêu Tông ở ngôi được 7 năm, thọ 26 tuổi.




Lê Cung Hoàng

Lê Cung Hoàng (1522-1527)

Niên hiệu: Thống Nguyên

Vua mới có tên là Xuân, còn có tên nữa là Khánh, cháu bốn đời của Thánh Tông, là em cùng mẹ với Chiêu Tông, sinh ngày 26 tháng 7 năm Đinh Mão (1507). Khi Chiêu Tông chạy khỏi hoàng cung, Mạc Đăng Dung lập ông lên làm vua, lúc đó 16 tuổi. Vì sợ Chiêu Tông ở ngoài hiệu triệu binh mã về đánh nên Mạc Đăng Dung không dám đóng tại kinh thành mà đón Hoàng đệ Xuân về Gia Phúc (Hải Dương) và chuyển hết của báu trong thành về đấy, phong quan tiến tước cho các quan. Sau khi đánh bại các cánh quân Cần vương của Chiêu Tông, mùa xuân năm Quý Mùi (1523) Đăng Dung đưa vua Cung hoàng về đóng ở hành dinh Bồ Dề, cho các quan vào chầu. Năm đó, triều đình vẫn cho mở khoa thi hương, thi hội ở bãi giữa sông Nhị. Vua ra đầu đề "Về đạo làm vua làm thầy". Nhưng bất chấp đạo làm tôi, tháng 7 năm đó, Đăng Dung dùng chiếu lệnh của Cung đế, phế bỏ vắng mặt Chiêu Tông xuống tước Đà Dương vương. Năm sau, Giáp Thân (1524) Đăng Dung tự mình thăng lên tước Bình Chương quân quốc trọng sự Thái phó Nhân quốc công. Tháng 10 năm Â't Dậu (1525) Đăng Dung tự làm đô tướng dẫn tất cả thủy và lục quân vào đánh Thanh Hóa. Vua Chiêu Tông bị bắt đưa về kinh sư, và bị giết vào tháng 12 năm Bính Tuất (1526).

Sau sự kiện bi thảm đó, Đăng Dung rút lui về Cổ Trai nhưng trong thực tế vẫn chế ngự triều đình. Năm Đinh Hợi (1527), Đăng Dung tự thăng tước Thái sư An Hưng vương, gia thêm cửu tứ. Tháng 4 năm Đinh Hợi (1527), Cung Hoàng sai Trùng dương hầu Vũ Hữu, Lan xuyên bá Phan Đình Tá và Trung sứ Đỗ Hiếu Đễ cầm cờ mao tiết mang kim sách và mũ áo ô lọng, đại ngọc, kiệu tía, quạt vẽ, tán tía đến làng Cổ Trai, huyện nghi Dương tấn phong Mạc Đăng Dung làm An Hưng vương. Đăng Dung đón tiếp sứ bộ của nhà vua, ở bến đò An Tháp huyện Tân Minh (Tiên Lãng, Kiến An ngày nay). Vua còn tặng Đăng Dung bài thơ "Chu công giúp Thành Vương" có ý khuyên Đăng Dung hãy giúp vua và triều đình theo gương Chu công đời xưa.

Mặc dù được Vua ân sủng hậu đãi và giao phó trọng trách, Mạc Đăng Dung vẫn không chịu dừng lại ở tước vương, mà vẫn kiên quyết chớp thời cơ giành ngôi đế cho họ Mạc. Ngày 15 tháng 6 năm Đinh Hợi (1527), Mạc Đăng Dung từ Cổ Trai vào kinh bắt Vua phải nhường ngôi, giáng vua Lê xuống làm Cung vương, bắt giam Vua cùng với Hoàng thái hậu ở cung Tây Nội, sau đó vài tháng buộc Thái hậu và Cung vương phái tự tử. Trước khi chết, Thái hậu khấn trời rằng: "Đăng Dung là kẻ bề tôi, manh tâm cướp ngôi, lại giết mẹ con ta, con cháu mày ngày sau cũng thế". Đăng Dung sai đem xác hai mẹ con nhà vua bày ra quán Bắc Sơn, rồi đem về chôn ở lăng Hoa Dương huyện Ngự Thiên (nay thuộc xã Mỹ Xá, huyện Hưng Hà, Thái Bình) theo nghi lễ của Thiên tử và Hoàng hậu. Như vậy là Cung Hoàng ở ngôi được đúng 5 năm, thọ 21 tuổi.
Nhận xét về ông vua này, sứ thần triều Lê đã viết: "Lúc ấy vận nước đã suy, lòng người đã lìa, tài vua lại vào hạng kém, có thể dẹp yên sao được".

Như vậy là triều Lê kể từ Lê Thái Tổ lên ngôi (1428) đến Cung Hoàng (1527) gồm 10 đời vua, cả thảy đúng 100 năm. Nếu tính cả thời gian Lê Lợi dấy quân xưng là Bình Định vương năm Mậu Tuất (1418) cộng là 110 năm. Đây là thời kỳ các vua Lê nắm được trọn quyền cai trị đất nước.